Top 10 phong tục hay và đặc sắc của các dân tộc thiểu số Việt Nam
Phong tục của các dân tộc thiểu số Việt Nam là cả một đề tài vô tận. Cả 54 dân tộc có biết bao nhiêu là hiện tượng, sự kiện văn hoá rất đáng quan tâm. Những vẻ đẹp trong những bộ y phục, trong đồ uống, thức ăn, những cách thức thờ cúng, cách tổ chức ngày sinh nhật, những nề nếp độc đáo trong các cuộc tang ma, cưới hỏi...
1. Tục kéo vợ của người H’mông
Dân số của người H’mông là đông nhất của tỉnh Hà Giang, khoảng 190.000 người là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc mình. Và một trong những nét độc đáo riêng của người H’mông là tục kéo vợ.
Các chàng trai, cô gái trong bản sau khi tìm hiểu nhau mà cảm thấy tâm đầu ý hợp sẽ về thưa chuyện với gia đình để kết hôn. Nếu được hai bên gia đình đồng ý thì sẽ mời mai mối đến rạm hỏi và làm thủ tục kết hôn bình thường. Còn những cặp đôi không được gia đình đồng ý thì sẽ phải dùng đến tục lệ này.
Cô dâu chú rể sẽ nhờ họ hàng bí mật tổ chức lễ cưới cho mình mà giấu cả hai bên bố mẹ. Chàng trai và cô gái như đã hẹn trước, họ ngồi nói chuyện tâm sự thì bạn bè chàng trai bất ngờ xuất hiện và giúp chàng trai kéo cô gái về nhà mình.
Nhà chàng trai phải mang gà ra làm lễ quét phép cô gái mới được vào trong nhà. Tục lệ thể hiện tình yêu mãnh liệt của đôi trai gái ngay cả khi có bị cấm đoán bởi hai bên gia đình.
2. Tục bát canh rêu đá của người Thái
Rêu đá là một món ăn đặc sản của người Thái ở miền núi Tây Bắc, Việt Nam.
Đối với người Thái đây là món ăn không thể thiếu trên mâm cơm tiếp đãi khách quý cùng với măng chua, thịt gác bếp và cũng là món ăn không thể thiếu trong những ngày lễ của người dân ở đây. Thời điểm thường mọc của cây rêu đá là lúc chớm thu khoảng vào tháng ba âm lịch và chỉ được sử dụng chế biến món ăn trong vòng 2 đến 3 ngày vì rêu đá rất nhanh hỏng.
Những món ăn được chế biến từ rêu đá: Canh rêu đá đó là rêu đá sau khi dùng chày đập nát và loại bỏ hết tạp chất sẽ cho vào nước luộc gà hoặc canh xương, khi ăn bạn sẽ thấy rất bùi và ngậy; rêu đá nướng hay nộm rêu đá… đều là những món rất ngon đậm đà tình thương nỗi nhớ.
3. Tục khóc trâu của ngườ Cơ tu
Người Cơ tu theo điều tra dân số 1999 thì dân tộc này có dân số 50.458 người cư trú chủ yếu trên dãy núi Trường Sơn. Mỗi mùa lúa mới thắng lớn dân làng thường tổ chức lễ hội đặc biệt là tổ chức lễ đâm trâu.
Vào dịp này mỗi gia đình đều chuẩn bị nhiều món ngon, sau lễ đâm trâu, mang đến nhà Gươl góp, tổ chức ăn uống linh đình trong suốt một tuần. Trước ngày đâm trâu, già làng, người có uy tín trong cộng đồng, sẽ tổ chức cúng trâu tại sân Gươl và khấn với Yàng rằng mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi, ngày mai xin Yàng cho dân làng đâm trâu.
Cả làng múa hát vui vẻ đến khuya còn người già thường thức đến sáng để tế, khóc trâu (nơơi). Màn khóc trâu thưởng được mở đầu bằng câu: ”Trâu ơi, giờ trâu đã buộc vào neo, biết gỡ vào đâu…”. Tục lệ khóc tế trâu thường nói lên tình cảm nhớ thương, thương tiếc vì đã hi sinh con vật đã suốt đời gắn bó, phục vụ con người, nay lại làm vật hiến sinh cúng Yàng.
4. Síp xí – tết của người Thái đen Mường Lò, Yên Bái
Tết Síp Xí của người Thái đen ở Mường Lò, Nghĩa Lộ Yên Bái thường được tổ chức vào ngày 13,14 tháng 7 âm lịch và là tết lớn nhất của người Thái Đen nên ngày mùng 10 các bà, các mẹ, các chị em đã đi chợ mua gạo nếp, thịt gà, lá chuối rừng và lạc để chuẩn bị gói bánh Síp Xí – một loại bánh quan trọng trong ngày lễ này.
Trong ngày tết bánh Síp Xí ngoài dùng làm vật cúng ma nhà còn được dùng để biếu họ hàng cũng như khách quý đến chơi nhà. Ngoài bánh Síp Xí mọi người còn chuẩn bị gạo để làm xôi ngũ sắc dùng để cúng tổ tiên.
Không giống người Kinh trong ngày lễ này vịt lại là con vật quan trọng nhất dùng để xua đi vận đen trong nhà nên nhà nào cũng thịt vịt – là món ăn chính trong mâm cơm ngày tết của người Thái Đen. Con cháu sẽ mang bánh Síp Xí cùng với một bộ lòng vịt sang chúc tết ông bà để chúc phúc mừng tuổi ông bà, còn ông bà sẽ tặng mỗi cháu 2 cặp bánh Síp xí cầu mong cho các cháu luôn khỏe mạnh, ngoan ngoãn.
Hãy thử một lần đến Mường Lò vào dịp tết Síp Xí, bạn sẽ cảm nhận được sự ấm áp, những nét đặc sắc, độc đáo, những giá trị tinh hoa còn được lưu giữ đến tận ngày nay trong các bản làng của người Thái đen Mường Lò, Yên Bái.
5. “Củi hứa hôn” và phong tục cưới hỏi của người Giẻ Triêng
Những cô gái đến tuổi cập kê được một chàng trai mà mình ưng ý cầu hôn và muốn lấy người đó làm chồng thì thường lên rừng tìm những cây gỗ tốt đốn bằng nhau, phơi khô và cõng về nhà xếp ngay ngắn ở đầu nhà, hoặc trước sân và được che chắn cẩn thận để chuẩn bị “ngày lành tháng tốt” cõng đến nhà trai.
Những bó củi đó được gọi là củi hứa hôn của người Giẻ Triêng. Số lượng củi các cô gái mang đến nhà trai thường là 100 bó. Không chỉ cõng củi cho gia đình nhà chồng mà còn mang cho cả anh chồng, chị ruột của chồng đã xây dựng gia đình và ở riêng mỗi gia đình khoảng 20 đến 30 bó, còn nhà trai thường làm thịt 60 đến 70 con chim, con chuột để tiếp đãi khi nhà gái cõng củi đến nhà mình.
Ngoài ra nhà trai còn tặng quần áo cho những người cõng củi đến nhà trai để thay lời cảm ơn. Sau hôm cõng củi và lễ mời cơm ấy, họ hàng hai bên mới chính thức trở hành “sui gia”, tiếp tục đi lại thăm hỏi nhau theo phong tục của người Việt Nam.
6. Lễ ăn cơm mới của người Xá Phó
Lễ ăn cơm mới của người Xá Phó cũng diễn ra trong 3 ngày chính như trong ngày tết cổ truyền của cả nước:
+ Ngày đầu tiên: người nhiều tuổi nhất trong nhà phải dựng một ngôi sàn nhỏ trên nương, bày một hòn đá ba chén rượu, ba đôi đũa, một quả trứng gà luộc,ba sợ chỉ trắng và một nắm cơm rồi khấn thần lúa sau đó một mình để gặt một vài cụm lúa mới về cúng tổ tiên và trước khi về người gặt sẽ cắm một cái ta leo để cấm người lạ.
+ Ngày thứ 2: Không còn là một người đi gặt nữa mà là cả hai vợ chồng chủ nhà cùng ra đồng cắt lúa nhưng không được nói với nhau câu gì và mỗi người sẽ gặt đủ 15 bó lúa về để cúng.
+ Ngày thứ 3 thì cả nhà cùng nhau đi gặt nhưng cũng trong sự im lặng. Chỉ khi lúa gặt xong chủ nhà rút ta leo lên thì mọi người mới được nói chuyện thoải mái với nhau
Sau 3 ngày lễ chính chủ nhà sẽ làm cơm tiếp đãi mọi người để mời mọi người trong bản ăn cơm mới của gia đình. Lúc này lễ hội ăn cơm mới coi như là kết thúc.
7. Tín ngưỡng phồn thực quanh vùng Đền Hùng
Hàng năm xuân thu nhị kỳ các làng đều mở hội với mục đích là cầu mong mùa màng, con người, con của được sinh sôi nảy nở cho đông đàn dài lũ, ngô lúa đầy cót đầy bồ( Phồn thực). Đó là mong ước lớn nhất của những người trồng lúa làm nông.
Vật tượng trưng của sự sinh sôi nảy nở chính là nõ nường, là vật giống nam và nữ do vậy quanh đền Hùng có nhiều làng thờ sinh thực khí, biểu tượng chung nhất cho tín ngưỡng phồn thực.
8. Tục thổi khèn tìm bạn tình ở chợ tình Sa Pa
Nếu đi du lịch Sao Pa vào những ngày cuối tuần thì bạn nên đi chợ tình một lần, Chợ tình đã thu hút rất nhiều khách du lịch với những món đồ thổ cẩm rất đẹp được bày bán.
Hơn nữa vào những ngày này bạn sẽ được nghe tiếng khèn rất hay lay động lòng người của những chàng trai đã đến tuổi cập kê dùng tiếng khèn của mình để tìm bạn gái. Và đôi khi người dân Sa Pa cũng dùng tiếng khèn để giải trí sau những ngày làm việc vất vả.
Tiếng khèn Sa Pa là một nét đẹp văn hóa của người H’mông và cần được trân trọng.
9. Tục ra gà – Một nét văn hóa ở Chu Hóa
Tục ra gà là tập tục ở xã Chu Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ. Đây là tập tục không thể thiếu trong những ngày đầu năm mới thường được tổ chức vào ngày mùng 5 tết.
Gia chủ sẽ chọn một con gà khoảng 3 đến 4 cân nhốt riêng hằng ngày chỉ cho ăn cơm nóng trộn cám loại 1 để mùng 5 giết thịt mang ra đình làng cùng với xôi thổi sẵn.
Tập tục này dành cho các bé trai được sinh ra trong năm đó, người ta tin rằng gà càng to, càng đẹp thì đứa trẻ sinh ra càng khỏe mạnh và hay ăn chóng lớn.Thông qua tục lệ này, con người ngay từ khi sinh ra đã gắn chặt với tổ tiên, cộng đồng.
Đây là nét đẹp truyền thống cần được bảo tồn để thế hệ con cháu luôn luôn nhớ về cội nguồn, quê hương bởi vì quê hương nguồn cội luôn là nơi ấm áp mà con người luôn muốn tìm về nên không thể quên quê hương của mình dù đi bất cứ đâu
10. Tục lệ uống rượu cần
Tục uống rượu cần có ở khắp các dân tộc trên cả nước nhưng có chủ yếu ở dân tộc Mường và Thái.
Vào những ngày lễ hội rượu được để trong bình lớn cắm nhiều vòi nhỏ và dài. Mọi người ngồi theo vòng và lần lượt từng người uống một. Khi rượu trong bình lớn vơi đi sẽ được đổ thêm nước vào nên lúc đầu rượu có nồng độ cao hơn và càng về sau càng giảm dần. Rượu cần là một thứ rượu ngọt và thơm nhưng lại không khiến người ta say mà lại nhớ.
Nếu một lần được thưởng thức bạn sẽ không thể quên được hương vị của loại rượu này.
Tục lệ uống rượu cần
Đây là những nét văn hóa truyền thống quý giá của dân tộc Việt Nam. Nếu có cơ hội hãy cố gắng một lần được trải nghiệm những phong tục tập quán này bạn nhé.